Câu đố về danh nhân lịch sử được trích từ tập thơ câu đố 1001 bài thơ đợi bạn đặt tên (NXB Thanh niên 2002) và Câu đố xưa và nay (NXB Thanh niên 2004) của nhà thơ Đặng Hấn. Thân mời các bạn cùng đọc và đặt tên cho các bài thơ câu đố về danh nhân lịch sử bên dưới nhé.
Câu đố về danh nhân lịch sử (21 câu)
Câu 1Kiếm gãy, nhổ tre làm vũ khí » Đáp ánHai câu ba và bốn là dịch thơ Cao Bá Quát:
|
Câu 2Tên đẹp – hoa sen đẹp » Đáp ánPhác họa Bác Hồ Câu 1 nhắc thơ Bảo Định Giang:
Câu 2 nhắc thơ Xuân Diệu:
Câu 3 nhắc thơ Tố Hữu:
Câu 4 nhắc thơ Phạm Tiến Duật viết khi Bác đi xa:
|
Câu 3“Tam tộc tru di”, máu đỏ làng » Đáp ánVài nét Nguyễn Trãi Câu 1 nhắc vụ án “Lệ Chi Viên” về cái chết của vua Lê Thái Tôn dẫn đến thảm họa cho Nguyễn Trãi. Câu 2 nhắc ĐẠI CÁO BÌNH NGÔ cũng là nhắc đến tài đức và công lao của Nguyễn Trãi đối với dân tộc và triều đình nhà Lê. Ở câu 3 “gương tầy chiếu” là sửa lại thành ngữ “gương tầy liếp” nghĩa là gương lớn. Gương ở đây là muốn nói đến gương “tài mệnh tương phương” tức là tài và mệnh làm hại lẫn nhau, thường xảy ra trong chế đệ phong kiến cũ. Chữ “chiếu” là muốn nhắc đến giai thoại làm quen nhau của Nguyễn Trãi và Thị Lộ: Tôi ở Tây Hồ bán chiếu gon. Cả câu 3 lẫn câu 4 muốn nhắc đến cái chết của vua Thái Tôn ắt hẳn có nguyên nhân (hay nguyên cớ) từ tài sắc của Thị Lộ. Và vì cái chết đó mà triều đình dàn cảnh hãm hại Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi tên hiệu là Ức Trai, sinh năm 1380, quê Hà Đông, mất năm 1442. |
Câu 4Năm trăm năm. Hỏi đã là lâu? » Đáp ánNguyễn Bỉnh Khiêm Nguyễn Bỉnh Khiêm tên hiệu là BẠCH VÂN cư sĩ. Ông sinh năm 1491, quê Hải Dương, đỗ Trạng Nguyên (1535). Ông được vua Mạc Phúc Hải phong tước Trình Truyền Hầu (1544) (ý so sánh với anh em Trình Di, Trình Hạo ở Trung Quốc giỏi lý số) rồi sau lại phong Trình Quốc Công nên người ta gọi ông là Trạng Trình. Ông có nhiều câu thơ tiên đoán được sự biến động của các triều đại nên sau người đời hay gọi các câu thơ đó là “sấm Trạng Trình”. Ông có để lại cuốn BẠCH VÂN THI TẬP gồm khoảng 100 bài thơ Nôm và khoảng 100 bài thơ chữ Hán. Thơ ông nặng tính giáo huấn nói về nhân tình thế thái (Thớt có tanh tao ruồi đỗ đến / Gang không mật mỡ kiến bò chi…), đọc xong ta có thể bắt chước cụ Yên Đổ mà thốt lên: “Lạ nhỉ, người xưa cũng thế ư!”. Sau đây xin chép ba bài thơ “không đề” của ông để làm rõ “xuất xứ” các câu thơ của bài “thơ chân dung” này. Bài 1:
Bài 2:
Bài 3:
Nguyễn Bỉnh Khiêm mất năm 1585. |
Câu 5Thương đều thập loại chúng sinh » Đáp ánNguyễn Du Câu 1 nhắc VĂN TẾ THẬP LOẠI CHÚNG SINH của Nguyễn Du. Câu 2 nhắc câu thơ của Tố Hữu: Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều có thể xem là câu thơ thuộc loại hay nhất viết về Nguyễn Du và Truyện Kiều. Câu 3 nhắc câu Kiều:
Đồng thời cũng muốn nói chính Nguyễn Du là tấm gương sáng về chữ TÂM. Câu cuối muốn nhắc câu thơ chữ Hán của Nguyễn Du trong bài ĐỘC TIỂU THANH KÝ:
Xuân Diệu dịch:
Có lẽ còn nhiều (chứ không phải chỉ ba) trăm năm nữa vẫn còn nhiều người thương khóc Nguyễn Du. Sầu tuôn đứt nối là chữ của Nguyễn Du tả Thúy Kiều thương khóc Đạm Tiên:
Nguyễn Du (tên hiệu là Tố Như) quê Nghi Xuân, Hà Tĩnh, sinh năm 1765 mất năm 1820. Sự nghiệp văn chương chủ yếu dành cho thơ chữ Hán, Truyện Kiều không phải là phần tinh túy nhất của thiên tài Nguyễn Du nhưng vì viết bằng chữ Nôm nên được phổ biến rộng sâu hơn. |
Câu 6Văn vô tiền Hán. Hiếm hoi thay » Đáp ánCAO BÁ QUÁT Câu 1 nhắc đôi câu đối được phổ biến rộng rãi:
Câu 2 nhắc bài TẮM KHE BÀN THẠCH:
Hai câu 3,4 nhắc thơ Cao Bá Quát nói rõ tinh thần phản kháng, khí phách anh hùng và tâm hồn trong sạch cao đẹp của Cao Bá Quát:
Câu 5, 6 nhắc chuyện Cao Bá Quát khi làm sơ khảo trường Thừa Thiên thấy một số quyển rất khá nhưng phạm vào tên húy của nhà vua, để khỏi bỏ mất những nhân tài vì những lỗi vớ vẩn, ông đã dùng muội đèn sửa đi. Chuyện bại lộ, bị triều đình hạ tội “giảo giam hậu” (người phạm tội phải thắt cổ chết nhưng tạm giam chưa thi hành). Hai câu cuối nhắc thơ Cao Bá Quát làm khi bị giết (lúc khởi nghĩa Mỹ Lương thất bại) và khi bị giam:
Và
nghĩa là cả “đế” lẫn “vương” đều bị ông đạp dưới chân. Cao Bá Quát tên tự là Chu Thần, quê Bắc Ninh, Gia Lâm Hà Nội, sinh năm 1809 và mất năm 1854. |
Câu 7Mắt lòa, lòng rạng sáng ngời » Đáp ánNguyễn Đình Chiểu Câu 1 nói Nguyễn Đình Chiểu là người anh minh sáng suốt, tuy bị mù lòa, nhưng ông luôn nhìn rõ mọi lẽ phải trái; phân biệt kẻ xấu người tốt, không vì một lợi ích cá nhân nào làm lu mờ được đức trung thực, lòng yêu nước thương dân của ông. Câu 2 và 3 nhắc hai câu thơ nổi tiếng của Nguyễn Đình Chiểu, tuyên ngôn về quan niệm sáng tác văn học của ông:
Câu cuối là nguyên văn câu thơ nổi tiếng của ông nói về lẽ ghét thương:
Nguyễn Đình Chiểu quê Bến Tre, sinh năm 1822, mất năm 1888. |
Câu 8Trong lồng sáo hót » Đáp ánKim Đồng Bốn câu đầu nhắc lại hình ảnh Kim Đồng (Nông Văn Dền) đi làm liên lạc trong cuộc kháng chiến chống Pháp qua các truyện kể và phim ảnh về anh. Câu cuối nhắc tên nhà xuất bản Kim Đồng, nhà xuất bản lớn nhất nước chuyên xuất bản sách cho thiếu nhi. |
Câu 9Bồn chồn nghe sấm, nhớ mưa » Đáp ánLê Anh Xuân Câu đầu nhắc bài thơ NHỚ MƯA QUÊ HƯƠNG – Giải thưởng báo Văn Nghệ 1961, trong đó có câu Ôi, tiếng sấm từ xa đang rền vang rộn rã cũng là tiếng súng, tiếng trống trận ở Miền Nam thôi thúc nhà thơ. Từ “bồn chồn” cũng muốn nhắc câu thơ Lê Anh Xuân viết về Sài Gòn thời chiến tranh:
TIẾNG GÀ GÁY báo hiệu bình minh cách mạng giải phóng và HOA DỪA là tên các tập thơ của Lê Anh Xuân. GIỮ ĐẤT là tên tập văn xuôi của Lê Anh Xuân viết ở chiến trường Miền Nam. Tên thật của tác giả là Ca Lê Hiến (quê ông ở Bến Tre) khi về chiến đấu ở Miền Nam, ông lấy bút danh Lê Anh Xuân và đã hy sinh. Ở TPHCM, hiện có đường Lê Anh Xuân, một con đường nhỏ nhưng đẹp, ngay trung tâm quận 1. Chữ “dáng đứng” cũng muốn nhắc bài thơ DÁNG ĐỨNG VIỆT NAM của Lê Anh Xuân:
Lê Anh Xuân sinh năm 1940 tại Bến Tre. Hy sinh năm 1968 tại Long An ven Sài Gòn. |
Câu 10Bỏ kiếp sống mòn, nửa đêm vào rừng kháng chiến » Đáp ánNam Cao Câu 1 nhắc 3 tác phẩm: SỐNG MÒN (tiểu thuyết); NỬA ĐÊM (tập truyện), Ở RỪNG (nhật ký). Câu 2 nhắc tập truyện NHỮNG CÁNH HOA TÀN. Câu 3 nhắc tập truyện ĐÔI MẮT và tập truyện CƯỜI. Hai câu cuối cùng nhắc tác phẩm CHÍ PHÈO và một số chi tiết của truyện. Nam Cao có tên khai sinh là Trần Hữu Trí, sinh năm 1917 ở làng Đại Hoàng, xã Hòa Hậu, Lý Nhân Nam Hà; hy sinh năm 1951 tại Ninh Bình. |